Sự ảnh hưởng của ma tuý đá đến người nhiễm HIV

“Đá”, cái tên phổ biến khi nhắc đến một loại ma tuý tổng hợp. Nó tác động, kích thích mạnh mẽ lên hệ thần kinh và gây ra những thương tổn khó khắc phục về thể chất, tâm lý, xã hội; đe doạ đến từng cá thể lạm dụng hoặc bắt đầu nghiện ma tuý đá. Việc “đập đá” bất hợp pháp được tìm thấy trong tất cả tầng lớp xã hội ở Mỹ, không có sự khác biệt giữa tỉ lệ sử dụng nó ở nam lẫn nữ, thành thị hay nông thôn, giữa các chủng tộc hay sắc tộc nào. Ngoài ra, đá còn có các loại tên khác như “crank”, “meth”, “Tina”. Loại ma tuý này đã được lạm dụng trong suốt hơn 50 năm qua.

 

Có một mối liên kết chặt chẽ giữa việc sử dụng đá và chấp nhận mạo hiểm khi quan hệ tình dục, đặc biệt là ở cộng đồng đồng tính và dị tính nam nơi mà tỉ lệ nhiễm HIV  hiện nay tập trung rất cao, các nhà chức trách quan ngại rằng loại ma tuý này sẽ không dừng ở việc gây nghiện mà có thể tạo ra một “đại dịch kép”. Ví dụ, năm 2003, Tờ San Francisco Chrinicle báo cáo rằng có hơn 40% người đồng tính nam ở San Francisco đã sử dụng đá, và có gần 1/3 số ca nhiễm HIV mới xuất hiện trong nhóm người sử dụng loại ma tuý này trong thời gian qua. Những báo cáo tương tự cũng đã xuất hiện ở những nơi tập trung đông đảo người đồng tính nam như New York, Miami và Atlanta. Vì mối liên hệ mật thiết giữa việc lạm dụng ma tuý đá và chấp nhận rủi ro khi quan hệ tình dục, nên năm 2004 tổ chức Gay Men’s Health Crisis (GMHC) đã triệu tập những lực lượng đặc nhiệm và tiến hành xây dựng chiến lược tuyên truyền giáo dục để giải quyết vấn đề lạm dụng ma tuý đang ngày càng gia tăng.

 

Những ảnh hưởng của việc lạm dụng Đá.

                                       

Lạm dụng và nghiện đá có nhiều ảnh hưởng rõ rệt đến người sử dụng cũng như đến các thành viên trong gia đình lẫn bạn bè. Ví dụ, theo một nghiên cứu trên 350 cá thể được chọn từ trong những trại cai nghiện cho thấy 84% những người tham gia bị sụt cân trong quá trình sử dụng ma tuý đá. Những vấn đề khác cũng được đề cập đến như mất ngủ (78%), gặp khó khăn tài chính (78%), hoang tưởng (67%), phạm tội (63%), ảo giác (61%), gặp khó khăn trong công việc (60%), có hành vi bạo lực (57%), vấn đền về răng miệng (55%) và các vấn đề da liễu (36%). Lạm dụng ma tuý đá ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sống của mỗi người, nó không chỉ là nguyên nhân gây ra những thương tổn không thể khắc phục về sinh lý, làm cơ thể chết dần chết mòn mà còn làm suy giảm nhận thức, cùn mòn cảm xúc và tạo ra bất ổn cho xã hội. Những tác động của việc lạm dụng ma tuý dẫn đến những hành vi tình dục không an toàn được xem như một sự chỉ đường hay một người hướng dẫn đưa lối người sử dụng đến việc lây nhiễm HIV và các nguồn bệnh khác. Cuối cùng, có nhiều bằng chứng về tim mạch, thần kinh, tâm thần và các biến chứng về đường miệng có liên quan đến việc sử dụng ma tuý đá.

 

Mối liên hệ giữa nghiện ma tuý đá và Nguy cơ từ quan hệ tình dục.

 

Có nhiều dữ liệu nghiên cứu về mối liên hệ giữa sử dụng ma tuý đá và sự lây nhiễm HIV, đặc biệt là trong nhóm đồng tính và dị tính nam. Nghiên cứu hành vi đã ghi nhận mối tương quan chặt chẽ giữa sử dụng ma tuý đá và các hành vi tình dục trong cộng đồng này. Sử dụng ma tuý được xếp vào nhóm hành vi và diễn biến tâm lý phức tạp (ví dụ: khao khát hoà nhập xã hội, quan hệ tình dục bừa bãi, giảm sự cô đơn, và trầm cảm). Và sự tương quan này cũng có trong cộng đồng dị tính. Tuy nhiên, vì HIV đã và đang thâm nhập vào cộng đồng đồng tính nam sâu, rộng hơn bao giờ hết tại Mỹ, cụ thể là việc sử dụng hàng đá và sự chấp nhận các rủi ro mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục STIs cũng như HIV trong nhóm này.

 

Trung bình, hành vi tình dục dưới sự ảnh hưởng của hàng đá làm người tiêu thụ có xu hướng mạo hiểm hơn. Ví dụ, theo một nghiên cứu vào năm 2006, ước tính việc sử dụng đá làm tăng gấp đôi khả năng những người nam quan hệ đồng giới không dùng các biện pháp an toàn khi quan hệ tình dục có xâm nhập. Trong những người đồng tính nam không biết tình trạng nhiễm HIV của mình, sử dụng hàng đá khi quan hệ tình dục không an toàn qua đường hậu môn làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV đến 18 lần so với nhóm người âm tính. Tương tự, trong nghiên cứu của Wong và đồng sự (2006) thì việc sử dụng ma tuý đá làm tăng nguy cơ lây nhiễm giang mai cao gấp 6 lần, và cũng trong nghiên cứu của Plankey và cộng sự cho thấy sử dụng ma tuý đá làm tăng nguy cơ nhiễm HIV 1.46 lần trong thời kỳ cửa sổ.

 

Vấn đề nghiện ma tuý đá ảnh hưởng đến những bệnh nhân HIV

 

Giống như tất cả những hành vi tác động lên cơ thể, sử dụng hàng đá có những tác động rõ rệt lên những người dương tính HIV. Một phần vì việc pha trộn, sản xuất tinh thể đá bất hợp pháp, chúng thường chứa chì và pha tạp với các loại chất hoá học khác, điều đó có thể đe doạ, ảnh hưởng xấu đến chức năng của hệ miễn dịch. Những loại ma tuý tịch thu sau khi phân tích cho thấy độ tinh khiết chỉ là 54%, còn lại là các chất khác như Bột soda, đường lactose, muối Epsom, quinine (ký ninh), manitol (loại thuốc lợi niệu), procain, ê-te, thuốc trừ sâu, bột ngọt, strychnine,... Ngoài ra, tác động của ma tuý đá lên tim mạch, phổi và hệ thống dẫn truyền thân kinh của người HIV là rõ ràng hơn cả.

 

Hiệu ứng tương tác bất lợi giữa thuốc điều trị HIV và ma tuý đã được ghi nhận, đặc biệt là với những người đang trải qua điều trị bằng phương pháp kháng HIV. Hơn nữa, việc sử dụng đá gây trở ngại trong việc tuân thủ điều trị. Theo nghiên cứu của Halkitus và đồng sự năm 2002 đã cho thấy việc sử dụng đá chỉ ra rằng người đồng tính và song tính nam sử dụng hàng đá quên uống thuốc hơn những người không sử dụng ma tuý đá. (12 lần quên so với 4 lần quên trong 2 tháng điều trị). Một nghiên cứu của nhóm Ellis vào năm 2003, cũng chứng minh rằng người nhiễm HIV thường xuyên sử dụng đá có tải lượng virus cao hơn so với người nhiễm không dùng đá hoặc mới sử dụng gần đây. Những tác động của ma tuý có ảnh hưởng đến việc làm giảm hiệu quả của liệu pháp kháng virus mặc dù tuân thủ điều trị. Cụ thể, năm 2002, nhóm Ahmad đã chỉ ra rằng ngay khi tuân thủ điều trị, sử dụng ma tuý có liên quan đến việc gia tăng lượng virus ở não. Tương tự, nhóm nghiên cứu của Gavrilin (2002) cho biết tải lượng virus của người sử dụng ma tuý (trong đó có hàng đá) cao gấp 5 lần so với người không sử dụng các chất ma tuý.

 

Một trong những tác động rõ rệt nhất của ma tuý đá là nó tác động lên hệ thống dẫn truyền thần kinh, đặc biệt là hệ thống kiểm soát và giải phóng Dopamine. Dopamine là một chất dẫn truyền thần kinh, tạo ra cảm giác thoải mái, và khi sử dụng ma tuý đá thì nó sẽ làm hệ thần kinh giải phóng thật nhiều Dopamine và ma tuý đá ngăn cản việc tái hấp thu Dopamine bởi các nơ-ron thần kinh, điều này dẫn đến sự hưng phấn tột độ. Tuy nhiên, tác động kép của HIV và ma tuý đá lên hệ thống sản xuất Dopamine làm tăng độ nhạy cảm của những người nhiễm HIV, dẫn đến việc ngộ độc thần kinh. Sự tương tác qua lại giữa việc lạm dụng ma tuý đá và HIV có thể gây ra những thay đổi nhất định về kích thước và cấu trúc não. Trong cả hai trường hợp, những sự thay đổi này ảnh hưởng đến sự nhận thức (nhận thức kém đi), chẳng hạn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin mới, khả năng giải quyết vấn đề, tập trung lâu, và xử lý nhanh thông tin. Những bệnh liên quan đến hệ thống dẫn thần kinh của người nhiễm HIV có lạm dụng/nghiện ma tuý đá nghiêm trọng hơn so với nhóm chỉ nhiễm HIV và nhóm chỉ sử dụng ma tuý đá. Một so sánh về các hiệu ứng tương tác giữa việc sử dụng ma tuý đá lên người nhiễm HIV vào năm 2004 đã kiểm tra hiệu ứng này trên chức năng nhận thức.  Những số liệu chứng minh rằng tỷ lệ suy giảm chức năng thần kinh thì cao nhất là người nhiễm HIV sử dụng đá (58%), tiếp đến là nhóm người âm tính HIV sử dụng đá (40%), sau là nhóm người nhiễm HIV nhưng không dùng đá (38%), thấp nhất là nhóm không nhiễm HIV, không sử dụng đá (18%), điều này cho thấy sự tác động kép của nhiễm HIV và việc lạm dụng ma tuý đá như thế nào đến chức năng nhận thức của não.

 

Ngoài ra, hiệu ứng tương tác giữa nhiễm HIV và sử dụng ma tuý đá ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh, tác động này góp phần làm gia tăng các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Trong một nghiên cứu của Talloczy và đồng nghiệp vào 2008, nhóm này đã phát hiện sự tác động trực tiếp khả năng chống chọi lại sự nhiễm trùng bằng cách ảnh hưởng ức chế miễn dịch lên các tế bào tua (tế bào mang kháng nguyên cho các tế bào lympho, có vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch của động vật có vú, kể cả người) và đại thực bào. Lạm dụng ma tuý đá làm gia tăng sự sao chép và kiềm hãm sự phá huỷ nội bào của 2 bệnh liên quan đến AIDS là, nấm Candida, ảnh hưởng đến hệ thống tiêu hoá, và nấm Crytococcosis, gây viêm màng não ở bệnh nhân HIV.

 

Kết luận

 

Các số liệu cho thấy một nhóm những bệnh nhân HIV đang thường xuyên sử dụng loại ma tuý đá, đặc biệt trong cộng đồng đồng tính và song tính nam. Đối với những người có hệ miễn dịch bị tổn hại nghiêm trọng, thì ma tuý có thể làm tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Ngoài việc làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm HIV cho bạn tình, bản thân các chất ma tuý cũng đã có những ảnh hưởng đến cơ thể người, trong đó biến chứng thần kinh, và gia tăng sự số lượng của virus. Đặc biệt cần phục hồi lại sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tâm thần cho những bệnh nhân HIV đang sử dụng ma tuý, người đang dần hồi phục từ việc ngưng sử dụng ma tuý đá hoặc người có nguy cơ tái sử dụng đá. Các nhà cung cấp, chăm sóc y tế cần phải có những nhận thức sâu sắc về những dấu hiệu của nghiện ma tuý đá, và làm việc một cách thân thiện, cởi mở, trung thực hơn với các bệnh nhân để họ nhận thức, giải quyết dứt điểm các tác hại của việc nghiện ma tuý đá.

 

 

Nguồn: thebody.com

Sự ảnh hưởng của ma tuý đá đến người nhiễm HIV

 

“Đá”, cái tên phổ biến khi nhắc đến một loại ma tuý tổng hợp. Nó tác động, kích thích mạnh mẽ lên hệ thần kinh và gây ra những thương tổn khó khắc phục về thể chất, tâm lý, xã hội; đe doạ đến từng cá thể lạm dụng hoặc bắt đầu nghiện ma tuý đá. Việc “đập đá” bất hợp pháp được tìm thấy trong tất cả tầng lớp xã hội ở Mỹ, không có sự khác biệt giữa tỉ lệ sử dụng nó ở nam lẫn nữ, thành thị hay nông thôn, giữa các chủng tộc hay sắc tộc nào. Ngoài ra, đá còn có các loại tên khác như “crank”, “meth”, “Tina”. Loại ma tuý này đã được lạm dụng trong suốt hơn 50 năm qua.

 

Có một mối liên kết chặt chẽ giữa việc sử dụng đá và chấp nhận mạo hiểm khi quan hệ tình dục, đặc biệt là ở cộng đồng đồng tính và dị tính nam nơi mà tỉ lệ nhiễm HIV  hiện nay tập trung rất cao, các nhà chức trách quan ngại rằng loại ma tuý này sẽ không dừng ở việc gây nghiện mà có thể tạo ra một “đại dịch kép”. Ví dụ, năm 2003, Tờ San Francisco Chrinicle báo cáo rằng có hơn 40% người đồng tính nam ở San Francisco đã sử dụng đá, và có gần 1/3 số ca nhiễm HIV mới xuất hiện trong nhóm người sử dụng loại ma tuý này trong thời gian qua. Những báo cáo tương tự cũng đã xuất hiện ở những nơi tập trung đông đảo người đồng tính nam như New York, Miami và Atlanta. Vì mối liên hệ mật thiết giữa việc lạm dụng ma tuý đá và chấp nhận rủi ro khi quan hệ tình dục, nên năm 2004 tổ chức Gay Men’s Health Crisis (GMHC) đã triệu tập những lực lượng đặc nhiệm và tiến hành xây dựng chiến lược tuyên truyền giáo dục để giải quyết vấn đề lạm dụng ma tuý đang ngày càng gia tăng.

 

Những ảnh hưởng của việc lạm dụng Đá.

                                       

Lạm dụng và nghiện đá có nhiều ảnh hưởng rõ rệt đến người sử dụng cũng như đến các thành viên trong gia đình lẫn bạn bè. Ví dụ, theo một nghiên cứu trên 350 cá thể được chọn từ trong những trại cai nghiện cho thấy 84% những người tham gia bị sụt cân trong quá trình sử dụng ma tuý đá. Những vấn đề khác cũng được đề cập đến như mất ngủ (78%), gặp khó khăn tài chính (78%), hoang tưởng (67%), phạm tội (63%), ảo giác (61%), gặp khó khăn trong công việc (60%), có hành vi bạo lực (57%), vấn đền về răng miệng (55%) và các vấn đề da liễu (36%). Lạm dụng ma tuý đá ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sống của mỗi người, nó không chỉ là nguyên nhân gây ra những thương tổn không thể khắc phục về sinh lý, làm cơ thể chết dần chết mòn mà còn làm suy giảm nhận thức, cùn mòn cảm xúc và tạo ra bất ổn cho xã hội. Những tác động của việc lạm dụng ma tuý dẫn đến những hành vi tình dục không an toàn được xem như một sự chỉ đường hay một người hướng dẫn đưa lối người sử dụng đến việc lây nhiễm HIV và các nguồn bệnh khác. Cuối cùng, có nhiều bằng chứng về tim mạch, thần kinh, tâm thần và các biến chứng về đường miệng có liên quan đến việc sử dụng ma tuý đá.

 

Mối liên hệ giữa nghiện ma tuý đá và Nguy cơ từ quan hệ tình dục.

 

Có nhiều dữ liệu nghiên cứu về mối liên hệ giữa sử dụng ma tuý đá và sự lây nhiễm HIV, đặc biệt là trong nhóm đồng tính và dị tính nam. Nghiên cứu hành vi đã ghi nhận mối tương quan chặt chẽ giữa sử dụng ma tuý đá và các hành vi tình dục trong cộng đồng này. Sử dụng ma tuý được xếp vào nhóm hành vi và diễn biến tâm lý phức tạp (ví dụ: khao khát hoà nhập xã hội, quan hệ tình dục bừa bãi, giảm sự cô đơn, và trầm cảm). Và sự tương quan này cũng có trong cộng đồng dị tính. Tuy nhiên, vì HIV đã và đang thâm nhập vào cộng đồng đồng tính nam sâu, rộng hơn bao giờ hết tại Mỹ, cụ thể là việc sử dụng hàng đá và sự chấp nhận các rủi ro mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục STIs cũng như HIV trong nhóm này.

 

Trung bình, hành vi tình dục dưới sự ảnh hưởng của hàng đá làm người tiêu thụ có xu hướng mạo hiểm hơn. Ví dụ, theo một nghiên cứu vào năm 2006, ước tính việc sử dụng đá làm tăng gấp đôi khả năng những người nam quan hệ đồng giới không dùng các biện pháp an toàn khi quan hệ tình dục có xâm nhập. Trong những người đồng tính nam không biết tình trạng nhiễm HIV của mình, sử dụng hàng đá khi quan hệ tình dục không an toàn qua đường hậu môn làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV đến 18 lần so với nhóm người âm tính. Tương tự, trong nghiên cứu của Wong và đồng sự (2006) thì việc sử dụng ma tuý đá làm tăng nguy cơ lây nhiễm giang mai cao gấp 6 lần, và cũng trong nghiên cứu của Plankey và cộng sự cho thấy sử dụng ma tuý đá làm tăng nguy cơ nhiễm HIV 1.46 lần trong thời kỳ cửa sổ.

 

Vấn đề nghiện ma tuý đá ảnh hưởng đến những bệnh nhân HIV

 

Giống như tất cả những hành vi tác động lên cơ thể, sử dụng hàng đá có những tác động rõ rệt lên những người dương tính HIV. Một phần vì việc pha trộn, sản xuất tinh thể đá bất hợp pháp, chúng thường chứa chì và pha tạp với các loại chất hoá học khác, điều đó có thể đe doạ, ảnh hưởng xấu đến chức năng của hệ miễn dịch. Những loại ma tuý tịch thu sau khi phân tích cho thấy độ tinh khiết chỉ là 54%, còn lại là các chất khác như Bột soda, đường lactose, muối Epsom, quinine (ký ninh), manitol (loại thuốc lợi niệu), procain, ê-te, thuốc trừ sâu, bột ngọt, strychnine,... Ngoài ra, tác động của ma tuý đá lên tim mạch, phổi và hệ thống dẫn truyền thân kinh của người HIV là rõ ràng hơn cả.

 

Hiệu ứng tương tác bất lợi giữa thuốc điều trị HIV và ma tuý đã được ghi nhận, đặc biệt là với những người đang trải qua điều trị bằng phương pháp kháng HIV. Hơn nữa, việc sử dụng đá gây trở ngại trong việc tuân thủ điều trị. Theo nghiên cứu của Halkitus và đồng sự năm 2002 đã cho thấy việc sử dụng đá chỉ ra rằng người đồng tính và song tính nam sử dụng hàng đá quên uống thuốc hơn những người không sử dụng ma tuý đá. (12 lần quên so với 4 lần quên trong 2 tháng điều trị). Một nghiên cứu của nhóm Ellis vào năm 2003, cũng chứng minh rằng người nhiễm HIV thường xuyên sử dụng đá có tải lượng virus cao hơn so với người nhiễm không dùng đá hoặc mới sử dụng gần đây. Những tác động của ma tuý có ảnh hưởng đến việc làm giảm hiệu quả của liệu pháp kháng virus mặc dù tuân thủ điều trị. Cụ thể, năm 2002, nhóm Ahmad đã chỉ ra rằng ngay khi tuân thủ điều trị, sử dụng ma tuý có liên quan đến việc gia tăng lượng virus ở não. Tương tự, nhóm nghiên cứu của Gavrilin (2002) cho biết tải lượng virus của người sử dụng ma tuý (trong đó có hàng đá) cao gấp 5 lần so với người không sử dụng các chất ma tuý.

 

Một trong những tác động rõ rệt nhất của ma tuý đá là nó tác động lên hệ thống dẫn truyền thần kinh, đặc biệt là hệ thống kiểm soát và giải phóng Dopamine. Dopamine là một chất dẫn truyền thần kinh, tạo ra cảm giác thoải mái, và khi sử dụng ma tuý đá thì nó sẽ làm hệ thần kinh giải phóng thật nhiều Dopamine và ma tuý đá ngăn cản việc tái hấp thu Dopamine bởi các nơ-ron thần kinh, điều này dẫn đến sự hưng phấn tột độ. Tuy nhiên, tác động kép của HIV và ma tuý đá lên hệ thống sản xuất Dopamine làm tăng độ nhạy cảm của những người nhiễm HIV, dẫn đến việc ngộ độc thần kinh. Sự tương tác qua lại giữa việc lạm dụng ma tuý đá và HIV có thể gây ra những thay đổi nhất định về kích thước và cấu trúc não. Trong cả hai trường hợp, những sự thay đổi này ảnh hưởng đến sự nhận thức (nhận thức kém đi), chẳng hạn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin mới, khả năng giải quyết vấn đề, tập trung lâu, và xử lý nhanh thông tin. Những bệnh liên quan đến hệ thống dẫn thần kinh của người nhiễm HIV có lạm dụng/nghiện ma tuý đá nghiêm trọng hơn so với nhóm chỉ nhiễm HIV và nhóm chỉ sử dụng ma tuý đá. Một so sánh về các hiệu ứng tương tác giữa việc sử dụng ma tuý đá lên người nhiễm HIV vào năm 2004 đã kiểm tra hiệu ứng này trên chức năng nhận thức.  Những số liệu chứng minh rằng tỷ lệ suy giảm chức năng thần kinh thì cao nhất là người nhiễm HIV sử dụng đá (58%), tiếp đến là nhóm người âm tính HIV sử dụng đá (40%), sau là nhóm người nhiễm HIV nhưng không dùng đá (38%), thấp nhất là nhóm không nhiễm HIV, không sử dụng đá (18%), điều này cho thấy sự tác động kép của nhiễm HIV và việc lạm dụng ma tuý đá như thế nào đến chức năng nhận thức của não.

 

Ngoài ra, hiệu ứng tương tác giữa nhiễm HIV và sử dụng ma tuý đá ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh, tác động này góp phần làm gia tăng các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Trong một nghiên cứu của Talloczy và đồng nghiệp vào 2008, nhóm này đã phát hiện sự tác động trực tiếp khả năng chống chọi lại sự nhiễm trùng bằng cách ảnh hưởng ức chế miễn dịch lên các tế bào tua (tế bào mang kháng nguyên cho các tế bào lympho, có vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch của động vật có vú, kể cả người) và đại thực bào. Lạm dụng ma tuý đá làm gia tăng sự sao chép và kiềm hãm sự phá huỷ nội bào của 2 bệnh liên quan đến AIDS là, nấm Candida, ảnh hưởng đến hệ thống tiêu hoá, và nấm Crytococcosis, gây viêm màng não ở bệnh nhân HIV.

 

Kết luận

 

Các số liệu cho thấy một nhóm những bệnh nhân HIV đang thường xuyên sử dụng loại ma tuý đá, đặc biệt trong cộng đồng đồng tính và song tính nam. Đối với những người có hệ miễn dịch bị tổn hại nghiêm trọng, thì ma tuý có thể làm tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Ngoài việc làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm HIV cho bạn tình, bản thân các chất ma tuý cũng đã có những ảnh hưởng đến cơ thể người, trong đó biến chứng thần kinh, và gia tăng sự số lượng của virus. Đặc biệt cần phục hồi lại sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tâm thần cho những bệnh nhân HIV đang sử dụng ma tuý, người đang dần hồi phục từ việc ngưng sử dụng ma tuý đá hoặc người có nguy cơ tái sử dụng đá. Các nhà cung cấp, chăm sóc y tế cần phải có những nhận thức sâu sắc về những dấu hiệu của nghiện ma tuý đá, và làm việc một cách thân thiện, cởi mở, trung thực hơn với các bệnh nhân để họ nhận thức, giải quyết dứt điểm các tác hại của việc nghiện ma tuý đá.

 

 

Nguồn: thebody.com